Hệ thống thông tin vệ tinh Inmarsat
Diễn đàn lớp HH07B - Khoa hàng hải - ĐH GTVT TPHCM :: HÀNG HẢI TỔNG HỢP :: Thông tin liên lạc vô tuyến điện
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Hệ thống thông tin vệ tinh Inmarsat
Inmarsat được sáng lập vào năm 1979 để phục vụ cho những người đi biển, với mục đích theo dõi quản lý tầu thuyền và cung cấp các ứng dụng ứng cứu và tiêu khiển ngoài khơi qua vệ tinh. Các dịch vụ mang tính thương mại bắt đầu vào năm 1982, và kể từ đó, một loạt các dịch vụ phân phối của Inmarsat đã bành trướng nhằm thâu tóm các khu vực thị trường trên đất liền và hàng không. Đến những năm đầu của thập kỷ 90, Inmarsat có 64 nước thành viên. Vào tháng 4 năm 1999, Inmarsat trở thành một công ty trách nhiệm hữu hạn có trụ sở chính đặt tại Luân Đôn.
1. Hệ thống Inmarsat
Inmarsat được sáng lập vào năm 1979 để phục vụ cho những người đi biển, với mục đích theo dõi quản lý tầu thuyền và cung cấp các ứng dụng ứng cứu và tiêu khiển ngoài khơi qua vệ tinh. Các dịch vụ mang tính thương mại bắt đầu vào năm 1982, và kể từ đó, một loạt các dịch vụ phân phối của Inmarsat đã bành trướng nhằm thâu tóm các khu vực thị trường trên đất liền và hàng không. Đến những năm đầu của thập kỷ 90, Inmarsat có 64 nước thành viên. Vào tháng 4 năm 1999, Inmarsat trở thành một công ty trách nhiệm hữu hạn có trụ sở chính đặt tại Luân Đôn. Hệ thống Inmarsat bao gồm ba thành phần cơ bản sau:
- Phần không gian Inmarsat, là phần bao gồm các vệ tinh địa tĩnh được bố trí trên vùng Đại Tây Dương (Đông (AOR-E ) và Tây (AOR-W)), Thái Bình Dương (POR) và Ấn Độ Dương (IOR).
- Các trạm đất liền mặt đất (LES), là các trạm được các nhà điều hành viễn thông sở hữu và tạo ra các kết nối tới hạ tầng cơ sở mạng mặt đất. Gần đây, có khoảng 40 trạm đất liền mặt đất bố trí xuyên suốt thế giới với ít nhất là một trạm trong mỗi vùng bao vệ tinh.
- Các trạm mặt đất di động, là các trạm đem lại cho người sử dụng khả năng giao tiếp qua vệ tinh.
Inmarsat bắt đầu phân phối dịch vụ bằng việc thuê dung lượng của vệ tinh gồm ba phi thuyền không gian MARI-SAT được Tổng công ty Comsat General cung cấp định vị lần lượt tại 72,5o Đông, 176,5o Đông, và 106,5o Tây.
Giữa những năm 1990 và 1992, Inmarsat phóng bốn trong số các vệ tinh Inmarsat-2 của chính mình. Chúng có một sức chứa bằng khoảng 250 mạch Inmarsat-A, gấp khoảng 3 đến 4 lần dung lượng của các vệ tinh đã phóng trước kia. Các vệ tinh có một lượng tải tin bao gồm hai bộ tách sóng hỗ trợ khoảng không tới các liên kết di động trong các băng tần L/S (1,6 GHz cho liên kết uplink, 1,5 GHz cho liên kết downlink) và các liên kết Không gian - Trái đất trong các dải băng tần C/S (6,4 GHz cho liên kết uplink, 3,6 GHz cho liên kết downlink). Các vệ tinh có một khối lượng khi phóng là 1300 Kg, và sẽ giảm xuống còn 700 Kg khi nằm trên quỹ đạo. Các vệ tinh phát các chùm sóng phủ toàn cầu với một công suất bức xạ đẳng hướng hiệu dụng là 39 dBW ở băng thông L.
Giai đoạn tiếp theo trong quá trình phát triển của phần không gian là giai đoạn cùng với việc phóng các vệ tinh Inmarsat-3. Điều đáng chú ý là các vệ tinh này tuyển dụng công nghệ chùm điểm để tăng EIRP và các khả năng sử dụng lặp tần. Mỗi vệ tinh Inmarsat-3 có một chùm phủ sóng toàn cầu cộng với 5 chùm điểm. Các vệ tinh cho ra một EIRP chùm điểm lên tới 48 dBW, gấp 8 lần công suất của các chùm phủ sóng toàn cầu thuộc Inmarsat-2. Băng thông và công suất có thể được phân phối một cách năng động giữa các chùm tia nhằm tối ưu hoá độ bao phủ theo nhu cầu. Điều này tạo ra một dấu hiệu đầy ý nghĩa cho các loại hình dịch vụ mà Inmarsat giờ đây có thể cho ra mắt và cũng như cho các thiết bị mà có thể sử dụng để truy nhập mạng. Bên cạnh lượng tải tin truyền thông, các vệ tinh Inmarsat-3 cũng mang một tải lượng thông tin hàng hải để nâng cao các hệ thống hàng hải qua vệ tinh thuộc GPS và GLONASS.
Hiện tại, Inmarsat tuyển dụng bốn vệ tinh điều hành thuộc Inmarsat-3 và sáu vệ tinh dự phòng, tất cả bao gồm ba vệ tinh Inmarsat-3 và ba vệ tinh Inmarsat-2. Ba vệ tinh Inmarsat nữa đang được đưa ra để mời thuê dung lượng. Cấu hình vệ tinh được liệt kê trong bảng
1. Hệ thống Inmarsat
Inmarsat được sáng lập vào năm 1979 để phục vụ cho những người đi biển, với mục đích theo dõi quản lý tầu thuyền và cung cấp các ứng dụng ứng cứu và tiêu khiển ngoài khơi qua vệ tinh. Các dịch vụ mang tính thương mại bắt đầu vào năm 1982, và kể từ đó, một loạt các dịch vụ phân phối của Inmarsat đã bành trướng nhằm thâu tóm các khu vực thị trường trên đất liền và hàng không. Đến những năm đầu của thập kỷ 90, Inmarsat có 64 nước thành viên. Vào tháng 4 năm 1999, Inmarsat trở thành một công ty trách nhiệm hữu hạn có trụ sở chính đặt tại Luân Đôn. Hệ thống Inmarsat bao gồm ba thành phần cơ bản sau:
- Phần không gian Inmarsat, là phần bao gồm các vệ tinh địa tĩnh được bố trí trên vùng Đại Tây Dương (Đông (AOR-E ) và Tây (AOR-W)), Thái Bình Dương (POR) và Ấn Độ Dương (IOR).
- Các trạm đất liền mặt đất (LES), là các trạm được các nhà điều hành viễn thông sở hữu và tạo ra các kết nối tới hạ tầng cơ sở mạng mặt đất. Gần đây, có khoảng 40 trạm đất liền mặt đất bố trí xuyên suốt thế giới với ít nhất là một trạm trong mỗi vùng bao vệ tinh.
- Các trạm mặt đất di động, là các trạm đem lại cho người sử dụng khả năng giao tiếp qua vệ tinh.
Inmarsat bắt đầu phân phối dịch vụ bằng việc thuê dung lượng của vệ tinh gồm ba phi thuyền không gian MARI-SAT được Tổng công ty Comsat General cung cấp định vị lần lượt tại 72,5o Đông, 176,5o Đông, và 106,5o Tây.
Giữa những năm 1990 và 1992, Inmarsat phóng bốn trong số các vệ tinh Inmarsat-2 của chính mình. Chúng có một sức chứa bằng khoảng 250 mạch Inmarsat-A, gấp khoảng 3 đến 4 lần dung lượng của các vệ tinh đã phóng trước kia. Các vệ tinh có một lượng tải tin bao gồm hai bộ tách sóng hỗ trợ khoảng không tới các liên kết di động trong các băng tần L/S (1,6 GHz cho liên kết uplink, 1,5 GHz cho liên kết downlink) và các liên kết Không gian - Trái đất trong các dải băng tần C/S (6,4 GHz cho liên kết uplink, 3,6 GHz cho liên kết downlink). Các vệ tinh có một khối lượng khi phóng là 1300 Kg, và sẽ giảm xuống còn 700 Kg khi nằm trên quỹ đạo. Các vệ tinh phát các chùm sóng phủ toàn cầu với một công suất bức xạ đẳng hướng hiệu dụng là 39 dBW ở băng thông L.
Giai đoạn tiếp theo trong quá trình phát triển của phần không gian là giai đoạn cùng với việc phóng các vệ tinh Inmarsat-3. Điều đáng chú ý là các vệ tinh này tuyển dụng công nghệ chùm điểm để tăng EIRP và các khả năng sử dụng lặp tần. Mỗi vệ tinh Inmarsat-3 có một chùm phủ sóng toàn cầu cộng với 5 chùm điểm. Các vệ tinh cho ra một EIRP chùm điểm lên tới 48 dBW, gấp 8 lần công suất của các chùm phủ sóng toàn cầu thuộc Inmarsat-2. Băng thông và công suất có thể được phân phối một cách năng động giữa các chùm tia nhằm tối ưu hoá độ bao phủ theo nhu cầu. Điều này tạo ra một dấu hiệu đầy ý nghĩa cho các loại hình dịch vụ mà Inmarsat giờ đây có thể cho ra mắt và cũng như cho các thiết bị mà có thể sử dụng để truy nhập mạng. Bên cạnh lượng tải tin truyền thông, các vệ tinh Inmarsat-3 cũng mang một tải lượng thông tin hàng hải để nâng cao các hệ thống hàng hải qua vệ tinh thuộc GPS và GLONASS.
Hiện tại, Inmarsat tuyển dụng bốn vệ tinh điều hành thuộc Inmarsat-3 và sáu vệ tinh dự phòng, tất cả bao gồm ba vệ tinh Inmarsat-3 và ba vệ tinh Inmarsat-2. Ba vệ tinh Inmarsat nữa đang được đưa ra để mời thuê dung lượng. Cấu hình vệ tinh được liệt kê trong bảng
Diễn đàn lớp HH07B - Khoa hàng hải - ĐH GTVT TPHCM :: HÀNG HẢI TỔNG HỢP :: Thông tin liên lạc vô tuyến điện
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết